Phụ nữ dân tộc thiểu số được hỗ trợ sinh đẻ an toàn

Dựa vào dữ liệu điều tra xã hội học về “Thực hiện gói chính sách hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em (Dự án 8, giai đoạn 2021 – 2025)” thực hiện bởi Ban Dân tộc – Tôn giáo (nay là Ban Tuyên giáo, TW Hội LHPN Việt Nam) vào năm 2024, bài viết phân tích thực trạng tác động của gói chính sách phụ nữ dân tộc thiểu số và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của gói chính sách.
 Ảnh minh họa

Tóm tắt

Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em trong những thập kỷ gần đây. Tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng về sức khỏe vẫn tồn tại, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em thuộc các dân tộc thiểu số. Các cộng đồng này thường phải đối mặt với những rào cản lớn hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng, dẫn đến tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh cao hơn, cũng như tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ emTrong bối cảnh đó, chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách đặc biệt nhằm hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con theo đúng quy định, trong đó nổi bật những năm gần đây Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế -xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: 2021 – 2025. Gói chính sách hỗ trợ là một trong nhiều hoạt động của Dự án, cho đến nay chuẩn bị két thúc giai đoạn 1 vẫn còn những hạn chế trong việc triển khai các hoạt động và điều này đặt ra câu hỏi cần nghiên cứu trả lời về tình hình thực hiện chính sách đó thế nào, ảnh hưởng của nó ra sao. Dựa vào dữ liệu điều tra xã hội học về “Thực hiện gói chính sách hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em (Dự án 8, giai đoạn 2021 – 2025)” thực hiện bởi Ban Dân tộc – Tôn giáo, Trung ương Hội LHPN Việt Nam năm 2024, bài viết phân tích thực trạng tác động của gói chính sách phụ nữ dân tộc thiểu số và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của gói chính sách.

Từ khóa: Sinh đẻ an toàn, phụ nữ dân tộc thiểu số, chăm sóc sức khỏe trẻ em.

1. Đặt vấn đề

Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/10/2021  phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế -xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: 2021 – 2025 với 9 mục tiêu cụ thể của Chương trình cần thực hiện đến năm 2025, trong đó có một mục tiêu liên quan đến chăm sóc và bảo vệ sức khỏe là “Tăng cường công tác y tế để đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; 98% đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%”.

Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG DTTS & MN, TW Hội LHPN Việt Nam kịp thời ban hành Hướng dẫn số 04/HD-ĐCT ngày 28/7/2022 của Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam về Hướng dẫn triển khai Dự án 8 thuộc CTMTQG DTTS&MN, trong đó hướng dẫn cụ thể đối tượng, địa bàn thụ hưởng, cách thức triển khai 04 gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn tại 10 tỉnh địa bàn có đông người DTTS và có tỷ lệ sinh con tại nhà cao hơn mức trung bình cả nước, gồm: Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lắk. Các hoạt động được bắt đầu tại các tỉnh Dự án từ sau khi Đoàn chủ tịch ban hành Hướng dẫn 04/HD-ĐCT ngày 28/7/2022 về triển khai Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”. Sau hai năm thực tế triển khai 04 gói chính sách hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em, nhiều phụ nữ mang thai và sinh con đã được nhận hỗ trợ, tạo điều kiện cho chị em phụ nữ DTTS tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ chăm sóc y tế khi mang thai, sinh con và trong thời gian sau sinh đẻ. Gói hỗ trợ đã được chuyển tới các chị em phụ nữ ở những địa bàn xã, thôn đặc biệt khó khăn của 10 tỉnh nêu trên. Trong quá trình triển khai, các cấp Hội thường xuyên giám sát hỗ trợ kịp thời điều chỉnh cách thức hỗ trợ đảm bảo đúng quy định, đến với đối tượng kịp thời hơn và đầy đủ hơn. Một số hạn chế, vướng mắc khi thực hiện gói hỗ trợ này cũng đã được phản ánh từ tuyến cơ sở.

Để có thông tin khách quan là cơ sở xác định khoảng trống, khuyến nghị điều chỉnh, bổ sung gói chính sách hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em giai đoạn 2026 – 2030,     bài phân tích hướng tới nhận định về kết quả và tác động ban đầu của gói chính sách hỗ trợ tới đối tượng thụ hưởng, phát hiện những vướng mắc và hạn chế trong chỉ đạo, tổ chức triển khai để có thể điều chỉnh cho phù hợp với thực tế giúp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ này trong giai đoạn tiếp theo của Chương trình.  

2. Đánh giá về gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em

Bảng 1Thực trạng phụ nữ sinh con tại nhà của các tỉnh Dự án tính đến tháng 7 năm 2024 (Đvt: người)

TT

Nội dung

Điện Biên

Lai Châu

Sơn La

Nghệ An

Quảng Nam

Quảng Ngãi

Gia Lai

Kon Tum

Đắk Lắk

Tổng

1

Số PN DTTS mang thai và sinh con

5.462

3.529

8.171

2.529

1.506

1.007

9.595

4.278

12.896

48.973

2

Số PN DTTS không đi khám thai 

1.178

312

1.949

440

154

220

926

226

720

6.125

3

Số PN DTTS sinh con tại nhà  

1.966

713

2.874

205

189

95

828

758

141

7.769

Để đánh giá tác động của gói hỗ trợ tới đối tượng thụ hưởng căn cứ vào mức độ nâng cao nhận thức, kiến thức của phụ nữ mang thai và sinh con, thay đổi thực hành thể hiện bằng tỷ lệ đi khám thai đủ ít nhất 4 lần trong suốt thai kỳ, đẻ tại cơ sở y tế hoặc có người chuyên môn giúp đỡ, tăng cường dinh dưỡng của bà mẹ và cho con bú trong 6 tháng đầu sau sinh, nuôi dưỡng trẻ đủ lượng và chất dinh dưỡng.

Phân tích 132 phiếu hỏi hội viên là phụ nữ thuộc diện đối tượng thụ hưởng gói hỗ trợ cho thấy có 68% người được hỏi cho biết mang thai và sinh con 1 lần và 28% người mang thai và sinh con 2 lần kể từ năm 2022 đến nay. Số mang thai và sinh con 3 lần trở lên là rất ít. Về khám thai tại cơ sở y tế: Nội dung tư vấn và vận động phụ nữ mang thai là cần đi khám thai tại cơ sở y tế ít nhất 4 lần trong suốt thai kỳ theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Kết quả thu được từ bảng hỏi cho thấy, 88% người trả lời đã đi khám thai 4 lần (tính theo kỳ mang thai gần nhất), số đã đi khám từ 1 – 2 lần là 8%, số đi khám 3 lần là 3% và chỉ 1% người trả lời là không khám thai.

- “Theo thống kê của trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh năm 2023, tổng số ca đẻ ngoài cơ sở y tế là 460 ca, trong đó có 274 ca không được đỡ hoặc hỗ trợ. Trong 6 tháng 2024: có 205 đẻ ngoài có sở y tế, có 156 ca ko được đỡ hoặc hỗ trợ. Trong số trên chủ yếu thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số.” (Báo cáo của Hội LHPN tỉnh Nghệ An).

- “Theo thống kê của trung tâm kiểm soát bệnh tật năm 2023, tổng số ca đẻ ngoài cơ sở y tế là 1593 ca, trong đó có 558 ca không được đỡ hoặc hỗ trợ. Trong 6 tháng 2024: có 725 đẻ ngoài có sở y tế, có 265 ca không được đỡ hoặc hỗ trợ. Trong số trên chủ yếu thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số.” (Báo cáo của Hội LHPN tỉnh Kon Tum).

Báo cáo của Hội LHPN các tỉnh Hà Giang, Nghệ An, Kon Tum đều nhận định có sự chuyển biến về nhận thức và kiến thức cũng như thực hành sử dụng dịch vụ y tế khi mang thai và sinh con của phụ nữ DTTS:

- “Tác động từ gói chính sách đến bà mẹ và trẻ em: Người dân phấn khởi khi được tiếp cận và thụ hưởng các gói chính sách hỗ trợ; từng bước nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi; sức khoẻ bà mẹ, trẻ em được cải thiện, giảm thiểu tình trạng tử vong mẹ, tử vong trẻ em trên địa bàn tỉnh. Tăng cường năng lực hệ thống y tế, nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em có chất lượng” (Báo cáo của Hội LHPN tỉnh Hà Giang).

- “Thông qua các hoạt động tuyên truyền đã từng bước nâng cao được nhận thức cho hội viên phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, sinh đẻ an toàn, chị em đã chủ động đến khám thai và sinh con tại sinh con tại Trạm y tế hoặc Trung tâm y tế để tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế góp phần hạn chế tối đa tỷ lệ tai biến sản khoa cho hội viên phụ nữ khi sinh và sau sinh, đồng thời cũng giảm được tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã có ý thức đi khám thai đúng định kỳ và sinh đẻ an toàn tại cơ sở y tế ngày càng tăng” (Báo cáo của Hội LHPN tỉnh Nghệ An).

- “Các cấp Hội đã chủ động phối hợp chặt chẽ với Trung tâm y tế, cán bộ y tế tại địa bàn đến trực tiếp tư vấn các nội dung về kiến thức làm mẹ an toàn và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em nhờ đó bà mẹ được nâng cao kiến thức, tỷ lệ phụ nữ sinh con tại nhà ở vùng đồng bào dân tộc được giảm dần theo từng năm.” (Báo cáo của Hội LHPN tỉnh Kon Tum).

Nhận định về tác động của gói hỗ trợ từ phân tích ý kiến thu thập theo phiếu hỏi đối tượng thụ hưởng:

Về thang đo đánh giá tác động của gói hỗ trợ giống với lý do đề cập ở thang đo mức độ phù hợp nên thang đo đánh giá tác động được định danh như sau: 0 – Không giúp được gì; 1 – Bình thường/không rõ; 2 – Giúp được nhiều.     

Nhằm đánh giá về mức độ tác động của gói chính sách, tác giả tiếp tục sử dụng phương pháp cộng biến (compute value), gộp/cộng tất cả 5 biến hỏi về gói chính sách hỗ trợ sinh đẻ an toàn, cho ra thấp nhất là 5 điểm, cao nhất là 10 điểm, trong đó có 21 trường hợp không có thông tin (là các giá trị bị thiếu, missing value) nên chỉ đánh giá trên 100 trường hợp.

Số điểm trung bình là: 9.48/10 điểm, cho thấy những người được hỏi có đánh giá gói chính sách hỗ trợ sinh đẻ an toàn là giúp được nhiều với bản thân họ.

Bảng 2: Điểm trung bình về mức độ tác động các gói hỗ trợ (Số liệu của 3 tỉnh khảo sát Hà Giang, Nghệ An, Kon Tum)

                                                                                       (đơn vị: điểm/tổng 2 điểm)

Tên các gói hỗ trợ

Điểm trung bình

Chi phí đi lại khi đi khám thai

1,9

Chi phí đi lại khi đi sinh đẻ tại Cơ sở y tế

1,9

Hỗ trợ tiền ăn khi sinh đẻ tại Cơ sở y tế

1,83

Hỗ trợ gói vật tư chăm sóc khi sinh

1,92

Hỗ trợ thực phẩm, dinh dưỡng 6 tháng đầu sau sinh

1,91

           

Số liệu của bảng 2 cho thấy điểm trung bình của từng gói hỗ trợ được đánh giá có nhận định giống với đề cập ở trên là giúp được nhiều. Những số điểm chưa tới đầu 2 nhưng nếu theo quy tắc làm tròn thì gần như được coi là 2 điểm mang ý nghĩa là “phù hợp”. Tuy nhiên chi phí đi lại khi đi khám thai chỉ có 100 trường hợp đánh giá vì có một số trường hợp không được hưởng do mang thai và sinh con trước khi thông tư 55/TT-BTC được áp dụng. Còn với các gói hỗ trợ còn lại có 115 - 116 trường hợp đánh giá, số ít không có thông tin rất ít.

Biểu đồ 2: Gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em đã giúp thay đổi điều gì (Số liệu của 3 tỉnh khảo sát Hà Giang, Nghệ An, Kon Tum)

Để phân tích kỹ hơn gói hỗ trợ đã giúp được nhiều như thế nào, người được hỏi được hỏi thêm cụ thể là gói hỗ trợ đã giúp thay đổi điều gì. Có 113 người trả lời (93,4%) với 461 ý kiến (câu hỏi được lựa chọn nhiều phương án). Các ý kiến đều có tỷ lệ gần như tương đương nhau xung quanh tỷ lệ 20%. Gói hỗ trợ không chỉ là vấn đề về chi phí trong đó có đề cập việc tuyên truyền, vận động phụ nữ đến sinh con tại cơ sở y tế, lồng ghép tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của gói hỗ trợ trong các chiến dịch truyền thông tại cơ sở và trong các buổi sinh hoạt tại chi hội, tổ phụ nữ. Các ý kiến đưa ra đều cho thấy, gói hỗ trợ đã có sự tác động tích cực đối với hành vi và nhận thức của phụ nữ DTTS.

Biểu đồ 4: Những thông tin, kiến thức về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em đã được tiếp nhận (Số liệu của 3 tỉnh khảo sát Hà Giang, Nghệ An, Kon Tum

Có 112 (92,6%) người trả lời câu hỏi này với 620 ý kiến (câu hỏi được lựa chọn nhiều phương án). Các ý kiến đều có tỷ lệ gần như tương đương nhau xung quanh tỷ lệ 15 - 17%. Những ý kiến được đối tượng thụ hưởng nêu về chăm sóc bà mẹ trong thời gian mang thai, khi chuyển dạ, trong khi sinh, sau khi sinh, chăm sóc trẻ sơ sinh, các dấu hiệu nguy hiểm cần biết... thể hiện những kiến thức mà phụ nữ đã có được nhờ tuyên truyền, vận động. Với số liệu này cho phép đánh giá tác động tới nhận thức và thực hành chăm sóc sức khỏe của phụ nữ khi mang thai và sinh con.

3. Những khó khăn trong việc nhận gói hỗ trợ phụ nữ sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em

Các ý kiến thu thập được từ các 03 hội nghị, 03 cuộc tọa đàm tại xã, báo cáo của Hội LHPN 3 tỉnh được chọn khảo sát,  132 phiếu hỏi đối tượng thụ hưởng được tổng hợp, phân loại và đưa ra những nhận định chính như sau:

- Địa hình, giao thông: địa hình miền núi chia cắt, hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, dân cư sống không tập trung, xa cơ sở y tế. Một số gia đình lưu trú ở nương, rẫy dài ngày chỉ về nhà vào dịp lễ, tết… Những điều kiện tự nhiên này là cản trở lớn cho việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền vận động tới đối tượng thụ hưởng, là khó khăn trong việc di chuyển, đi lại của phụ nữ đến cơ sở y tế tiếp nhận dịch vụ khám thai và sinh con.

- Điều kiện đời sống, kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, thu nhập của người dân thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao hạn chế khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Điều kiện phương tiện đưa đón, chăm sóc phụ nữ khám thai và sinh con tại cơ sở y tế rất khó khăn do chồng và người thân trong gia đình thường xuyên đi làm ăn xa, không có người trông con nhỏ ở nhà.

- Trình độ nhận thức: trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế, thiếu kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản, biện pháp tránh thai, lợi ích của tầm quan trọng trong việc khám thai và sinh con tại cơ sở y tế; chăm sóc trẻ sơ sinh… Tình trạng phụ nữ mù chữ, tái mù chữ, chưa thành thạo tiếng phổ thông còn nhiều, gây khó khăn trong công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ khám thai và sinh con tại cơ sở y tế.

- Rào cản về phong tục tập quán: tình trạng tảo hôn; sinh con ở tuổi vị thành niên dẫn đến việc né tránh khám thai và sinh con tại cơ sở y tế; phụ nữ DTTS vẫn sinh con tại nhà theo thói quen từ xưa, tin tưởng vào các bà đỡ truyền thống thay vì tiếp cận các dịch vụ y tế hiện đại… Tình trạng phụ nữ DTTS sinh nhiều con với mức sinh dày còn phổ biến tại một số địa phương, do ảnh hưởng bởi giáo lý, giáo luật của tôn giáo (sinh con thuận theo tự nhiên, không sử dụng các biện pháp tránh thai, không giới hạn số lượng sinh con), vì vậy phụ nữ không quan tâm dành thời gian đi khám thai định kỳ theo hướng dẫn của y tế.

- Bất đồng về ngôn ngữ gây khó khăn trong công tác thăm khám, tuyên truyền, vận động giữa cán bộ Hội, y tế và người dân; nhân viên y tế thăm khám, đỡ đẻ là nam giới và là người Kinh cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên tâm lý e ngại, tự ti của phụ nữ DTTS trong quá trình thăm khám, sinh đẻ tại cơ sở y tế.

- Số lượng cô đỡ thôn, bản được đào tạo và có chứng chỉ còn ít, chưa đáp ứng nhu cầu hỗ trợ có chuyên môn của đội ngũ này cho phụ nữ khi sinh con tại nhà ở những địa bàn vùng sâu vùng xa khi chưa khắc phục/cải thiện được tình trạng sinh con tại nhà của phụ nữ DTTS.

Rất nhiều vướng mắc được nêu lên trong Tọa đàm xã và Hội thảo cấp tỉnh tại 3 địa phương chọn điểm khảo sát. Trong quá trình xử lý thông tin, dữ liệu, vướng mắc chung trong việc thực hiện gói chính sách hỗ trợ chính là: (1) điều kiện giao thông đi lại còn rất khó khăn, thiên tai bão lũ xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế; (2) rào cản về ngôn ngữ giữa tiếng bản địa và tiếng phổ thông khiến cho việc tiếp nhận thông tin còn hạn chế; (3) trình độ học vấn chưa được cao phần do điều kiện gia đình khó khăn nên không thể tiếp tục việc học, một số phong tục, tập quán lạc hậu cũng khiến cho việc tiếp cận, nâng cao nhận thức cũng bị hạn chế; (4) trong đó phong tục, tập quán lạc hậu như tảo hôn, sinh con tại nhà cũng khiến cho việc thực hiện gói chính sách cũng trở nên khó khăn; đặc biệt vài năm trở lại, một bộ phận giới trẻ DTTS tiếp cận các thông tin sai lệch, sai sự thật dẫn đến các hành vi quan hệ tình dục không an toàn, giấu người thân và gia đình khi mọi chuyện đã lỡ dở nhiều trưởng hợp có tư tưởng lệch lạc…

Bảng 3: Những ý kiến đề xuất điều chỉnh gói hỗ trợ (Số liệu của 3 tỉnh khảo sát Hà Giang, Nghệ An, Kon Tum)

Đề xuất điều chỉnh về các gói hỗ trợ

Số lượng
(Tỷ lệ %)

Bổ sung hỗ trợ bà mẹ đưa trẻ 24 tháng tuổi đi khám sức khỏe

36 (40%)

Bổ sung hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh con tại nhà có cô đỡ thôn bản đỡ đẻ

17 (19%)

Bổ sung hỗ trợ phụ nữ có chồng là người DTTS

30 (33%)

Ý kiến khác: Tăng mức hỗ trợ chi phí sinh đẻ

4 (4%)

Ý kiến khác: Bổ sung hỗ trợ chi phí tiêm chủng cho trẻ

2 (2%)

Ý kiến khác: Bổ sung hỗ trợ cho bà mẹ sinh đôi

1 (1%)

Tổng cộng

90 (100%)

 

Có 90 ý kiến đề xuất thu thập được (bảng 14), trong đó bổ sung hỗ trợ bà mẹ đưa trẻ 24 tháng tuổi đi khám sức khỏe chiếm tỷ lệ cao tới 40%, đề xuất Bổ sung hỗ trợ phụ nữ người Kinh có chồng là người DTTS chiếm 33%. Có 19% số ý kiến đề xuất Bổ sung hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh con tại nhà có cô đỡ thôn bản đỡ đẻ.

 Một số tồn tại về quy định và hướng dẫn thực hiện gói chính sách:

Hướng dẫn 04/HD-ĐCT quy định đối tượng thụ hưởng gói chính sách phải thực hiện sinh con đúng chính sách dân số quy định tại Điều 1, Nghị định số 39/2015/NĐ-CP (không yêu cầu phải là hộ nghèo). Tuy nhiên, ở một số địa phương còn có hiểu nhầm về tiêu chí của đối tượng thụ hưởng phải là người thuộc hộ nghèo, cận nghèo do đó chưa chi chế độ đầy đủ cho các bà mẹ thuộc diện đối tượng thụ hưởng, số lượng phụ nữ được nhận hỗ trợ còn thấp.

- Theo hướng dẫn số 04/HD-ĐCT ngày 28/7/2022 của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, việc chi trả hỗ trợ các gói hỗ trợ là giao cho Hội LHPN xã chủ trì, phối hợp với trạm Y tế xã trực tiếp chi trả các chế độ và thanh quyết toán các khoản chi hỗ trợ. Do nhân lực của Hội LHPN xã rất ít (trong đó có 1 CB bán chuyên trách), quá trình chi trả, hoàn thiện thủ tục kinh phí hỗ trợ mất nhiều thời gian, dẫn đến việc chi trả các gói chính sách cho các đối tượng thụ hưởng chưa đảm bảo thời gian theo hướng dẫn của TW (chi trả tại cơ sở y tế trong khi đi sinh con, khám thai).

- Không thể thực hiện Quy định "Thực hiện chi trả ngay tại thời điểm bà mẹ đến sinh con tại cơ sở Y tế" do nguồn ngân sách Dự án 8 chỉ được rút và chi trả cho các đối tượng thụ hưởng khi đã hoàn thiện đầy đủ các giấy tờ, thủ tục, chứng từ theo quy định. Các cấp Hội không có cơ sở để làm chứng từ tạm ứng tiền cho nội dung này và thực hiện chi trả ngay tại thời điểm bà mẹ sinh con tại các cơ sở y tế, dẫn tới việc chi trả chỉ thực hiện được sau khi sinh con và nhận tại các địa điểm khác như UBND huyện/xã, Hội PN xã.

- Tại một số địa phương, công tác phối hợp giữa Hội phụ nữ và ngành y tế chưa chặt chẽ, dẫn đến việc phối hợp thực hiện gói hỗ trợ thiếu hiệu quả.

- Công tác phối hợp giữa các Ban, ngành tại địa phương trong việc theo dõi, kiểm tra để tránh bị trùng đối tượng thụ hưởng các chính sách liên quan đến hỗ trợ phụ nữ sinh con đúng chính sách dân số từ các chương trình, dự án khác nhau còn gặp nhiều khó khăn.

- Mức kinh phí hỗ trợ đi lại, tiền ăn còn quá thấp, so với thực tế trượt giá thì không còn phù hợp.

4Một số kết luận, đề xuất và kiến nghị

Tóm lại bằng việc xử lý và phân tích các số liệu thu được bộ dữ liệu đã cung cấp cho việc Đánh giá gói chính sách hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em cái nhìn khách quan, tổng quát nhưng cũng rất cụ thể về thực trạng thực hiện gói chính sách tại các tỉnh thuộc diện thụ hưởng. Đi sâu và bám sát mục đích của cuộc khảo sát đã đặt ra, phần II đã làm rõ được một số nội dung sau:

Đối với nhóm phụ nữ được thụ hưởng gói hỗ trợ nhận định gói hỗ trợ là Phù hợp với họ, 4 gói được nhận định phù hợp với tỷ lệ thấp nhất là 87,6% và cao nhất là 94,7%. Nhóm đối tượng được thụ hưởng cho rằng gói hỗ trợ có tác động tốt vì Giúp được nhiều cho họ và đã nâng cao được kiến thức, cải thiện được thực hành chăm sóc khi mang thai và sinh con (88% người trả lời đã đi khám thai 4 lần và chỉ 1% người trả lời là không khám thai). Có sự chuyển biến về nhận thức và kiến thức cũng như thực hành sử dụng dịch vụ y tế khi mang thai và sinh con của phụ nữ DTTS. Trẻ em sinh ra an toàn, khỏe mạnh, được chăm sóc tốt hơn (20,6%); Phụ nữ và gia đình có thêm kiến thức, kỹ năng chăm sóc bà mẹ, trẻ sau sinh (20%). Số phụ nữ DTTS sinh con tại nhà ở tất cả các tỉnh đều giảm so với trước thời điểm triển khai gói hỗ trợ.

Đối với thành viên trong gia đình đã có thay đổi rất tích cựcqua nhận xét của nhóm đối tượng thụ hưởng, họ được chồng và gia đình quan tâm chăm sóc, động viên tinh thần khi mang thai (19,3%); Trẻ em sinh ra an toàn, khỏe mạnh, được chăm sóc tốt hơn (20,6%); Phụ nữ và gia đình có thêm kiến thức, kỹ năng chăm sóc bà mẹ, trẻ sau sinh (20%).

- Về văn hóa - Xã hội: qua phỏng vấn, tạo đàm với đại diện cấp ủy và ngành liên quan tại địa bàn khảo sát cho thấy, hầu hết các ý kiến đều nhận định: việc thực hiện các gói hỗ trợ phụ nữ sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khoẻ trẻ em đã góp phần nâng cao nhận thức, sự chủ động, trách nhiệm của các gia đình, cộng đồng trong chăm sóc sức khoẻ; đồng thời, tạo điều kiện cho bà mẹ và trẻ em là người DTTS được tiếp cận với các dịch vụ y tế thường xuyên hơn, dần thay đổi thói quen/tập tục không tốt cho sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh, giảm tình cúng lễ khi ốm đau, sinh con (19,1%).

Từ các thông tin đã được phân tích, mô tả ở trên, tác giả nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của gói chính sách:

- Tiếp tục quan tâm thực hiện hỗ trợ phụ nữ đồng bào là người dân tộc thiểu số, tuyên truyền, vận động xóa bỏ một số phong tục, tập quán trọng nam khinh nữ, như tình trạng tảo hôn, sinh đẻ ở tuổi vị thành niên, hôn nhân cận huyết thống đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em.

- Cần có quy chế phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng: Rà soát đối tượng thuộc trách nhiệm của Hội Phụ nữ xã, huyện; Việc xác nhận sử dụng dịch vụ của đối tượng hưởng thụ (khám thai, sinh đẻ tại cơ sở y tế) theo các mẫu xây dựng sẵn thuộc trách nhiệm của cơ sở y tế; Quy định rõ đơn vị chi trả tiền và thông báo rộng rãi tới các đối tượng thụ hưởng.

- Các ban ngành địa phương quan tâm đưa việc thực hiện các biện pháp đảm bảo sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe trẻ em vào hương ước, quy ước thôn, bản để gắn trách nhiệm thực hiện giữa bản thân, gia đình với cộng đồng.

Nghiên cứu, đề xuất bổ sung chính sách, đối tượng thụ hưởng các gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khoẻ trẻ em giai đoạn 2026 - 2030: (1) Hỗ trợ kinh phí đi lại cho bà mẹ đưa trẻ dưới 24 tháng tuổi đi khám sức khỏe tại cơ sở y tế; (2) Có quy định riêng chi hỗ trợ cho trường hợp đẻ tại nhà có nhân viên y tế giúp đỡ tại vùng địa bàn địa lý đặc biệt khó khănxa cơ sở y tế; (3) Điều chỉnh tăng các mức hỗ trợ chi phí đi lại và tiền ăn, ưu tiên tăng hoặc mức cao hơn cho địa bàn đặc biệt khó khăn; (4) Hỗ trợ phụ nữ người Kinh có chồng là người DTTS cư trú tại các địa bàn khó khăn; (5) Có cơ chế tạm ứng tiền trên cơ sở xác định đối tượng thuộc diện thụ hưởng gói hỗ trợ.

https://phunuvietnam.vn/

Tin cùng chuyên mục